Theo đó, thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/8/2023; thay thế Thông tư số 58/2020/TT-BCA ngày 16/6/2020 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định quy trình cấp, thu hồi đăng ký, biển số phương tiện giao thông cơ giới đường bộ.
Sau đây là một số thay đổi mà người dân nên chú ý:
Biển số xe được cấp theo mã định danh
Thông tư này quy định biển số xe được cấp và quản lý theo mã định danh của chủ xe. Theo đó, biển số định danh là biển số có ký hiệu, seri biển số, kích thước của chữ và số, màu biển số.
Cụ thể, đối với chủ xe là công dân Việt Nam thì biển số xe được quản lý theo số định danh cá nhân.
Chủ xe là người nước ngoài thì biển số xe được quản lý theo số định danh của người nước ngoài do hệ thống định danh và xác thực điện tử xác lập hoặc số thẻ thường trú, số thẻ tạm trú hoặc số chứng minh thư khác do cơ quan có thẩm quyền cấp.
Đối với chủ xe là tổ chức thì biển số xe được quản lý theo mã định danh điện tử của tổ chức do hệ thống định danh và xác thực điện tử xác lập; trường hợp chưa có mã định danh điện tử của tổ chức thì quản lý theo mã số thuế hoặc quyết định thành lập.
Trường hợp xe hết niên hạn sử dụng, hư hỏng hoặc chuyển quyền sở hữu xe thì biển số định danh của chủ xe được cơ quan đăng ký xe thu hồi và cấp lại khi chủ xe đăng ký cho xe khác thuộc quyền sở hữu của mình.
Khi bán xe, chủ xe sẽ phải nộp lại đăng ký xe, biển số xe để làm thủ tục thu hồi
Theo khoản 4 Điều 6 Thông tư 24/2023/TT-BCA quy định khi bán, tặng cho, thừa kế, trao đổi, góp vốn, phân bổ, điều chuyển xe (chuyển quyền sở hữu xe) thì chủ xe phải giữ lại đăng ký, biển số xe và nộp cho cơ quan công an để làm thủ tục thu hồi.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày làm giấy tờ chuyển quyền sở hữu xe, chủ xe phải làm thủ tục thu hồi; trường hợp quá thời hạn trên mà chủ xe không làm thủ tục thu hồi hoặc giao đăng ký xe, biển số xe cho tổ chức, cá nhân nhận chuyển quyền sở hữu xe làm thủ tục thu hồi, thì trước khi giải quyết, cơ quan đăng ký xe sẽ ra quyết định xử phạt đối với chủ xe về hành vi không làm thủ tục thu hồi theo quy định.
Trường hợp chủ xe không làm thủ tục thu hồi sau khi chuyển quyền sở hữu xe thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi vi phạm liên quan đến xe đó.
Như vậy, chủ xe khi bán xe phải giữ lại biển số, đăng ký xe và nộp cho cơ quan đăng ký xe, biển số xe để làm thủ tục thu hồi.
Không giới hạn số lượng biển số
Căn cứ Thông tư 24/2023/TT-BCA của Bộ Công an thì từ ngày 15/8/2023, các biển số ô tô, xe máy 5 số sẽ tự động mặc định là biển số định danh của chủ xe. Theo đó, không giới hạn số lượng biển số định danh mà mỗi người có thể sở hữu cùng lúc nhiều biển số ô tô, xe máy và mỗi biển số sẽ gắn với một xe.
Chuyển nơi cư trú phải làm thủ tục thu hồi nhưng được giữ biển số
Thông tư cũng quy định, khi chủ xe chuyển trụ sở, nơi cư trú từ tỉnh, thành này sang địa phương khác sẽ không cần phải thực hiện đổi biển số như trước đây.
Biển số định danh (biển 5 số) là biển số xe được cấp và được quản lý theo mã định danh của chủ xe. Biển số vẫn được cấp theo quy trình bấm biển như hiện nay, chỉ khác về cách quản lý. Nói cách khác, trước đây xe nào biển đó, giờ thì người nào biển đó, biển đi theo người.
Bởi thế, những xe 5 số “không chính chủ” thì biển đó mặc định là biển số định danh của người đang đứng tên trên giấy đăng ký xe. Chủ xe trong trường hợp này được xác định là chủ cũ chứ không phải người đang sử dụng.
Tức là từ ngày 15/8 vẫn có thể giữ lại biển số khi thay đổi địa chỉ trụ sở, nơi cư trú sang tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác.
Không nộp phạt vi phạm giao thông không được đăng ký xe
Theo khoản 15 Điều 3 Thông tư 24/2023 quy định, tổ chức, cá nhân vi phạm trật tự, an toàn giao thông mà không chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính thì chưa được giải quyết đăng ký xe.
Sau khi chấp hành xong quyết định xử phạt vi phạm giao thông mới được đăng ký xe theo quy định.
Như vậy, nếu không nộp phạt giao thông, người vi phạm sẽ không được giải quyết thủ tục đăng ký xe khác. Chủ xe buộc phải nộp phạt vi phạm giao thông trước sau đó mới được đăng ký xe.
Được đăng ký xe tại nơi tạm trú
Theo quy định tại Điều 4 Thông tư 24/2023/TT-BCA quy định, tổ chức, cá nhân sẽ được đăng ký xe tại nơi tạm trú. Theo đó, chủ xe là tổ chức, cá nhân có trụ sở, nơi cư trú (nơi đăng ký thường trú, tạm trú) tại địa phương nào thì đăng ký xe tại cơ quan đăng ký xe thuộc địa phương đó.
Như vậy chủ xe cư trú (thường trú, tạm trú) tại địa phương nào thì đăng ký xe tại đó. Đây là một điểm mới, do theo quy định cũ người dân chỉ được đăng ký xe tại nơi đăng ký hộ khẩu.
Cá nhân từ đủ 15 tuổi trở lên được đăng ký xe
Cũng theo khoản 9 điều 3 thông tư 24 quy định, cá nhân từ đủ 15 tuổi trở lên thì được đăng ký xe. Trường hợp cá nhân từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi đăng ký xe thì phải được cha hoặc mẹ hoặc người giám hộ đồng ý và ghi nội dung “đồng ý”, ký, ghi rõ họ tên, mối quan hệ với người được giám hộ trong giấy khai đăng ký xe.
Việc kê khai đăng ký xe được thực hiện trên Cổng Dịch vụ công Quốc gia hoặc Cổng Dịch vụ công Bộ Công an ( cổng dịch vụ công). Chủ xe sử dụng mã hồ sơ đã kê khai trên cổng dịch vụ công để làm thủ tục đăng ký xe. Trường hợp không thực hiện được trên cổng dịch vụ công do không có dữ liệu điện tử hoặc lỗi kỹ thuật thì chủ xe kê khai làm thủ tục trực tiếp tại cơ quan đăng ký xe.
Được sử dụng VNeID thay cho CCCD khi đăng ký xe
Theo Điều 8 Thông tư 24/2023/TT-BCA, hồ sơ đăng ký xe lần đầu bao gồm: Giấy khai đăng ký xe; giấy tờ của chủ xe và giấy tờ của xe.
Đối với giấy tờ của chủ xe là người Việt Nam, Điều 10 Thông tư 24 quy định có thể sử dụng tài khoản định danh điện tử mức độ 2 để thực hiện thủ tục đăng ký xe trên cổng dịch vụ công hoặc xuất trình căn Cước công dân (CCCD), hộ chiếu.
Chủ xe là tổ chức cũng có thể sử dụng tài khoản định danh điện tử mức độ 2 để thực hiện thủ tục đăng ký xe trên cổng dịch vụ công; trường hợp tổ chức chưa được cấp tài khoản định danh điện tử mức độ 2 thì xuất trình thông báo mã số thuế hoặc quyết định thành lập.