Mini Electric Pacesetter chính thức là mẫu xe an toàn (Safety Car) phục vụ tại giải đua ABBA FIA Formula E World Championship. Chiếc xe này là sản phẩm của sự hợp tác giữa thương hiệu xe Anh Quốc với BMW Motosport, FIA và Formula E. Người hâm mộ sẽ lần đầu tiên được chứng kiến chiếc xe này lăn bánh tại chặng đua thứ ba của mùa giải Formula E 2020-2021 tại thành phố Rome, Ý.
Chiếc Safety Car thực hiện nhiệm vụ tại giải đua dựa trên chiếc Mini Cooper SE bản bản xăng, phiên bản đặc biệt phục vụ trong trường đua có nhiều thay đổi lấy cảm hướng từ thương hiệu John Cooper Works. Trong khi phần đầu xe vẫn giữ lại đèn pha tròn cùng lưới tản nhiệt hình lục giác quen thuộc thường xuất hiện trên các mẫu xe thương mại thì vòm bánh được mở rộng và có thêm dải màu phản quang trên vòm bánh trước.
Đầu xe xuất hiện các hốc hút gió hình vuông bên dưới mặt ca-lăng làm nhiệm vụ tản nhiệt cho hệ thống phanh và cải thiện tính khí động học cho chiếc xe. Đặc trưng của xe Mini là các dải màu trên nắp ca-pô kéo dài từ đầu xe ra tới đuôi xe vẫn được giữ lại trên phiên bản đặc biệt. Dọc hai bên thân và đuôi xe nhiều chi tiết khí động học được tạo ra bằng công nghệ in 3D từ sợi carbon tái chế, trong khi bộ mâm 4 cây “bê nguyên” từ MINI JCW GP. Cánh đuôi sau xe cũng lấy từ JCW GP, nhưng gắn thêm bộ đèn báo hiệu chuyên dụng cho vai trò Safety Car.
Nội thất của phiên bản Cooper SE thương mại đã bị loại bỏ, thay vào đó là các chi tiết kiểu xe đua như khung gia cường độ cứng vững thân xe, ghế trước ôm lưng khung sợi carbon, dây an toàn 6 điểm, cụm đồng hồ kỹ thuật số và vô lăng cũng bằng sợi carbon. Ngay cả hệ thống thông tin giải trí cũng bị loại bỏ. Bảng điều khiển trung tâm bằng sợi carbon trần chứa núm chuyển số, phanh tay và điều khiển đèn tín hiệu cần thiết.
Trọng lượng của chiếc xe chỉ đạt 1.230kg, nhẹ hơn MINI Cooper SE dân dụng khoảng 130kg. Và trên thực tế, trái với mong đợi của các fan, MINI Electric Pacesetter vẫn giữ nguyên hệ động lực gốc của Cooper SE với động cơ điện cho công suất 181 mã lực và mô-men xoắn 280Nm. Pacesetter chỉ mất 6,7 giây để đạt 0-100km/h – nhanh hơn 0,6 giây so với Cooper SE nhờ hưởng lợi từ trọng lượng nhẹ hơn. Thời gian tăng tốc 80/120km/h cũng rút ngắn còn 4,3 thay vì 4,6 giây.
Để phù hợp khi vận hành trên đường đua, Electric Pacesetter có cùm phanh 4 piston và hệ thống treo có thể điều chỉnh độ nén/nảy/tải trọng, giá đỡ tay đòn điều khiển hệ thống treo theo tiêu chuẩn đường đua và lốp 245 / 40R18 – loại tương tự như lốp sử dụng trên bánh trước của những chiếc xe đua Formula E.